nguvandhag

“Thi pháp” và nhà nghiên cứu văn học đầu tiên ở phương Tây

Posted on: Tháng Mười Một 7, 2011

              Phùng Hoài Ngọc

 “THI PHÁP” CỦA ARISTOTE

Aristote  (384 – 322 tr. CN) và Poetika

 

     Aristote là nhà triết học, nhà giáo dục và nhà khoa học đã tạo nên ảnh hưởng hết sức lớn lao trong nền Văn minh Phương Tây . Cùng với Plato, Aristote được coi là một trong các nhà triết học Hy Lạp quan trọng nhất. Aristote hiểu rõ toàn thể học thuật Hy Lạp của các thời đại trước, đã cứu xét, tóm tắt, nhận xét và làm phát triển kiến thức của nhân loại, gây ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ về sau.

 1.      Cuộc đời của Aristote

 Aristote chào đời tại Stagira thuộc miền Thrace năm 384 trước CN. Stagira là một tỉnh nhỏ, là thuộc địa của Hy Lạp bên bờ phía bắc biển Aegean mà ngày nay có lẽ là Stavro. Cả hai cha và mẹ của Aristote đều gốc người Ionien. Cha Aristote, ông Nichomachus, là một thầy thuốc danh tiếng tại triều đình vua Amyntas II, cha của Vua Philip of Macedonia. Mẹ của Aristote vốn người miền Chalcis. Có lẽ trong 17 năm đầu, Aristote đã sống với cha mẹ và được cha dạy cho về Y Khoa. Năm 17 tuổi, Aristote tới thành Athens và theo hoc nghề thầy thuốc.

 Năm 367 trước CN, Aristote vào học Trường Academos của Plato. Vào thời gian này, Plato (hoặc Platon) 61 tuổi và đã liên quan tới nền chính trị của Syracuse. Vì vậy Hàn lâm viện Academos đặc biệt chú trọng về Luật pháp, Chính trị, thêm vào là Toán học và Thiên văn. Ngày nay, người ta chỉ hiểu biết rất mơ hồ về cuộc sống của Aristote trong 20 năm tại Hàn Lâm Viện.

 Aristote được coi là một trong số học viên chăm chỉ nhất và xuất sắc hơn các bạn về trí thông minh và lòng nhiệt thành. Người ta còn kể rằng Plato đã phải gọi Aristote là “Trí tuệ của Nhà trường” (l’entendement de l’Ecole). Theo như truyền thống, Aristote phụ trách giảng dạy môn Tu từ pháp (Rhetoric). Ông cũng soạn ra vài tập Đối Thoại (Dialogues) theo khuôn mẫu của thầy Plato. Các tác phẩm này đều trở nên rất nổi danh vì lối hành văn trôi chảy và trong sáng. Có người cho rằng giữa Aristote và Plato có sự bất đồng ý kiến trầm trọng, nhưng không ai tìm ra được các dẫn chứng đáng tin cậy. Có lẽ đối với Plato, Aristote đã bất đồng ý về nhiều giáo điều song ông lúc nào cũng kính trọng Thầy và gìn giữ lòng biết ơn. Khi Plato qua đời vào năm 347, ông viết một bài điếu văn trong đó ông đã ca tụng Thầy.

 Theo Diogene Laerce, Aristote mắc tật nói lắp (cà lăm). Ông có đôi mắt nhỏ, đôi chân gầy còm và rất ưa thích quần áo đẹp. Khả năng làm việc của Aristote rất lớn lao và người ta kết luận như vậy căn cứ vào số tác phẩm ông đã viết ra. Muốn giảm bớt thời giờ ngủ và tăng thêm số giờ làm việc, Aristote đã nghĩ ra phương pháp: khi đọc sách hay lúc làm việc về khuya, ông cầm nơi tay trái một quả cầu bằng đồng ở phía trên một chiếc chậu. Nếu vì ngủ gật mà quả cầu rơi xuống thì tiếng động sẽ đánh thức ông dậy. Aristote bị đau dạ dầy và để làm giảm bớt nỗi đau đớn, ông thường đeo ở trước ngực một cái bị đựng dầu đun nóng.

 Vào năm 347 khi Plato qua đời, Speusippus trở thành người đứng đầu trường Academos. Aristote đã cùng với Xenocrates và một vài môn đệ của Plato, rời thành Athens tới Assos, sống với Hermias là một học trò cũ của Plato và cũng là bạo chúa của hai tỉnh Atarneus và Assos trong miền Tiểu Á (Asia Minor). Aristote có cảm tình rất nhiều với Hermias và đã kết hôn cùng Pithias, người con gái nuôi của bạo chúa. Hermias cũng cảm thấy sung sướng khi được Aristote sống ở gần mình. Thời bấy giờ, Hermias đang điều khiển một lực lượng giữa hai xứ hùng mạnh là Macedonia và Ba Tư. Bạo chúa luôn luôn thù nghịch với một trong hai phe kể trên, để rồi rơi vào cạm bẫy của Mentor, đại tướng người Hy Lạp đi theo Ba Tư. Hermias bị trao cho Artaxerxes và bị treo cổ. Cái chết thảm thương của Hermias đã ảnh hưởng rất lớn tới Aristote.

Vì không cảm thấy an toàn tại Atarneus, Aristote đã theo lời khuyên của Theophrastus, một môn đệ, dọn tới Mitylene thuộc miền Lebos vào năm 344. Chính tại nơi này, Aristote đã nghiên cứu trong hai năm môn Sinh học, đặc biệt là ngành Hải sinh học (marine biology).

 Năm 342, Aristote được mời tới Macedonia để dạy dỗ thái tử Alexander khi đó mới 13 tuổi. Lời mời của vua Philip II có thể là do lúc tuổi trẻ, Aristote đã từng sống tại triều đình này, có thể là do danh tiếng của ông nhờ các tập Đối Thoại, nhưng cũng chính vì Aristote đã từng liên lạc chặt chẽ với Hermias là người đã tỏ ra thiên về Macedonia và chống lại Ba Tư. Aristote đã ở lại Macedonia trong 7 năm. Theo như thông lệ, nhà Đại hiền triếtđã dạy cho Thái Tử về Chính Trị và Tu Từ Pháp, và Aristote cũng soạn một tác phẩm của Homer để giảng cho Alexander. Aristote đã cố gắng làm phát triển nơi Thái Tử các đức tính về điều độ và lý trí mà đối với ông, rất cần thiết cho một vương quốc. Có lẽ chính vào dịp này, Aristote đã soạn ra cuốn “Khảo sát về Vương Quyền” (Traité de la Royauté) để giáo huấn Thái tử nhưng tác phẩm này đã bị thất lạc hoàn toàn.

 Năm 340 khi vua Philip đi chinh chiến nơi xa, Thái tử Alexander nắm giữ quyền hành. Vào thời gian này, Aristote lập ra một ngôi trường và ông cũng giành thời giờ cho riêng mình để học hỏi thêm. Aristote cũng khuyên Alexander cho kiến thiết lại Stagira, nơi đã bị tàn phá vài năm trước và có lẽ cũng do ông, thành phố này có một hiến pháp.

 Alexander rất quyến luyến ông Thầy và khi đã thay cha lên ngôi vua, vẫn lưu giữ Aristote bên cạnh. Thái Tử luôn luôn tỏ lòng biết ơn đối với Thầy cũ bằng cách biệt đãi nhà Đại hiền triếttrong mọi công việc. Nhưng nếu Alexander rất mến yêu Thầy thì trái lại, ít khi nghe theo lời khuyên bảo của Thầy vì “một sự di truyền kỳ lạ hình như đã gieo vào tâm hồn Thái Tử tính tự kiêu vô hạn, với một ý chí muốn ngồi ngang hàng cùng các thần linh”.

 Vào năm 335 khi Đại Đế Alexander đi chinh phục châu Á thì Aristote tự thấy rằng nhiệm vụ của mình đã chấm dứt. Ông đề nghị để người cháu tên là Callisthenes thay mình làm cố vấn cho Đại Đế. Alexander đã chấp nhận lời đề nghị và còn dùng Callisthenes làm sử gia theo đoàn quân viễn chinh. Aristote là người hiểu rõ tính tình của nhà vua học trò cũ, ông đã từng nhắc nhở cháu ông phải thận trọng trong lời nói, nhưng Callisthenes đã không cản được tấm lòng bảo vệ đường lối chính trị thuần Hy Lạp trong khi Đại Đế Alexander lại tỏ ra nhượng bộ trước ảnh hưởng của châu Á. Chính vì sự bất cẩn này, Callisthenes đã bị kết án tử hình và theo lời Diogene Laerce, ông ta bị quăng cho thú dữ xé  xác.

 Sau khi từ biệt Alexander, Aristote trở lại thành Athens. Tại nơi này, Xenocrates đang điều khiển Hàn Lâm Viện Academos. Aristote liền lập ra trường Lyceum, gần đền Apollon Lycien, vì vậy ngày nay mới có danh từ “Lycée”. Trường Lyceum là nơi tôn thờ Thần Muse, vị nữ thần chủ về Văn Chương, Nghệ Thuật và Khoa Học. Nhà trường có rất nhiều học cụ, kể cả bản đồ, lại có một thư viện rất đầy đủ. Tại ngôi trường này, Aristote trình bày các ý tưởng và giảng giải cho học viên trong các cuộc dạo chơi ngoài vườn, vì vậy ngôi trường của Aristote còn được gọi là “Trường Dạo Chơi” (Peritatetic school) do danh từ Peripatetic (dạo chơi) theo tiếng Hy Lạp.

 Nền giáo dục do Aristote chủ trương gồm hai phần: phần truyền khẩu và phần công khai (exoteric /phổ biến ra bên ngoài). Nhà Đại hiền triếtđề cập tới các câu hỏi hoàn toàn lý thuyết cho các học viên mới vào buổi sáng, còn buổi chiều Aristote giảng dạy những học viên cũ về nhiều điều làm mở mang kiến thức trong đó môn Tu từ pháp chiếm phần lớn thời gian. Trong 12 năm liền, Aristote vừa thuyết giảng, vừa viết sách và phổ biến nhiều tác phẩm đề cập tới hầu hết kiến thức của thời đại. Trong các năm cuối cùng sống tại Lyceum, Aristote đã thiết lập bảng liệt kê các thế vận kỳ, cũng như lập ra bảng niên biểu kịch nghệ của thành Athens mà về sau, bảng này đã được dùng làm căn bản để ấn định ngày tháng của các vở kịch Hy Lạp.

 Aristote còn biên khảo về Hiến Pháp. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn lại tác phẩm “Khảo sát về Hiến pháp của thành Athens” (On the Athenian Constitution). Khi Alexander chinh phục xứ Ba Tư, Đại Đế đã cho người đem về tặng Thầy cũ các tài liệu và mẫu hải sinh vật nhờ vậy, Aristote hoàn thành cuốn sách “Tính chất của các Sinh Vật” (La Nature des Animaux).

 Năm 323 khi Đại Đế Alexander qua đời, cuộc sống của Aristote cũng bị ảnh hưởng. Mặc dù Aristote chỉ còn rất ít liên lạc với Alexander, nhất là khi người cháu của ông bị tử hình, nhưng nhà Đại hiền triếtthường đi lại với Antipater và được viên tổng trấn này che chở. Đảng Quốc gia thành Athens do Demosthenes lãnh đạo đã nổi dậy chống lại phe Macedonia sau khi Đại Đế Alexander không còn nữa. Aristote nhận thấy đời sống và tài sản của mình bị đe dọa. Người ta đã tố cáo ông phạm tội bất kính (impiety) vì 20 năm trước, ông đã sáng tác một bài thơ tưởng niệm Hermias trong khi danh dự này phải giành cho Thượng Đế. Aristote nhớ lại số phận của Socrates rồi không đợi tòa án xét xử, vì chắc chắn ông sẽ bị kết án, Aristote rời bỏ thành Athens, trốn về quê mẹ là miền Chalcis. Ông tuyên bố “Tôi sẽ không để người Athens vi phạm Triết Học lần thứ hai” (I will not let the Athenians offend twice against Philosophy).

 Sống tại Chalcis được vài tháng, Aristote qua đời vào năm 322 có lẽ do bệnh đau dạ dầy, một căn bệnh đã hành hạ ông trong nhiều năm trường. Ông để lại hai người con, con trai cùng tên với ông nội là Nichomachus và người con gái mang tên mẹ Pithias. Theo như lời yêu cầu, nắm xương tàn của nhà Đại hiền triếtđược chôn cất tại Stagira cùng với hài cốt của Pithias, vợ ông.

 2. Các tác phẩm của Aristote

 Các tác phẩm của Aristote được chia làm ba loại: (1) các bài viết phổ thông (popular writings), (2) các sách ghi chép (memoranda) và (3) các sách luận đề (treatises).

Các bài viết phổ thông đa số gồm các tập đối thoại (dialogues) theo mẫu của Plato và được viết ra khi Aristote còn cư ngụ tại trường Academos. Các công trình sáng tạo này được nhà Đại hiền triếtgọi là các bài viết phổ biến ngoại (exoteric writings) với ý định dành cho công chúng bên ngoài trường học, hơn là các học viên của trường. Ngoại trừ một số đoạn rời rạc còn sót lại, hầu hết các tập đối thoại này đã bị thất lạc.

 Các sách ghi chép là tập hợp nhiều tài liệu khảo cứu và các sử liệu (historical records). Những sách này do Aristote và các môn đệ của ông thực hiện với chủ đích dùng làm nguồn tư liệu cho các học giả. Giống như các bài viết phổ thông, hầu hết loại sách ghi chép đều bị thất tán. Còn lại cho tới ngày nay là các sách luận đề, được viết ra dùng làm sách giáo khoa hay lời ghi giảng (lecture notes) tại Trường Lyceum, liên quan tới mọi ngành của Kiến Thức và Nghệ thuật. Không giống như các bài viết phổ thông, các sách luận đề chỉ được dùng cho học viên trong trường, vì vậy được gọi là các công trình phổ biến nội (esoteric works). Danh tiếng của Aristote được căn cứ vào các công trình này và đây là các tác phẩm mà các nhà biên tập đời sau đã thu thập và xếp đặt.

 Công trình khảo cứu của Aristote về Luận Lý (Logic học) được xếp chung vào bộ tác phẩm gọi tên là Organon, có nghĩa là “cách dùng” (instrument) bởi vì đây là phương tiện (the means) để đạt được kiến thức (positive knowledge), là cách để tìm hiểu tư tưởng. Bộ Organon gồm các tác phẩm The Categories (các Loại), The Prior and Posterior Analytics (các Phân tích trước và sau), The Topics (các Chủ Đề) và On Interpretation (Về cách diễn đạt).

 Aristote là nhà triết học đầu tiên đã phân tích phương pháp nhờ đó một số định đề (propositions) được suy diễn theo luận lý là đúng, căn cứ vào một số định đề khác đã được công nhận. Ông tin rằng tiến trình suy diễn luận lý này được đặt trên một hình thức tranh luận mà ông gọi là Tam đoạn luận (Syllogism). Trong một tam đoạn luận, một định đề được suy diễn từ hai định đề đúng khác. Một thí dụ của lý luận này như sau: (1) mọi người đều sẽ qua đời, (2) Socrates là một con người, vì thế có thể đi tới kết luận rằng (3) Socrates sẽ qua đời.

 Tam đoạn luận đã giữ một vài trò quan trọng trong nền Triết học sau này do tạo nên các hệ thống lý luận phức tạp hơn. Trong phép luận lý, Aristote đã phân biệt rõ hai thứ, là biện chứng (dialectic) và phân tích (analytic). Theo nhà Đại hiền triết, biện chứng chỉ trắc nghiệm các ý kiến (opinions) xét theo tính nhất quán về lý luận (logical consistency), còn các công trình phân tích (analytic works) được suy diễn từ các nguyên tắc dựa trên các kinh nghiệm và quan sát rõ ràng. Đây là sự khác biệt với lập trường của Hàn Lâm Viện của Plato, nơi cho rằng biện chứng là phương pháp duy nhất thích hợp với Khoa Học và Triết Học.

 Đối với Aristote, bản chất của thiên nhiên là thay đổi và ông đã định nghĩa môn triết học của thiên nhiên là sự khảo sát các sự vật đổi thay. Trong tác phẩm Physics (Vật lý), Aristote đã phân biệt “hình thể” (form) với “chất liệu” (matter) của một vật, chẳng hạn như khi một nhà điêu khắc tạc ra một bức tượng bán thân bằng đồng, chất liệu là đồng và hình thể là hình nửa người. Aristote đã nghiên cứu các nguyên nhân (causes) của sự thay đổi và phân biệt bốn loại: (1) nguyên nhân chất liệu (material cause) là thứ mà một vật được làm ra, (2) nguyên nhân hữu hiệu (efficient cause) là hành động của nhà điêu khắc, là nguồn gốc của chuyển động (source of motion), (3) nguyên nhân hình thể (formal cause) là hình dáng bên ngoài, là loại (kind, type) để xếp hạng và (4) nguyên nhân cuối cùng (final cause) là chương trình (plan), là kiểu mẫu (design) hay mục đích của người sáng tạo hay phát minh.

 Aristote cũng nghiên cứu chuyển động của các thiên thể qua tác phẩm On the Heavens (Về Bầu Trời) và tìm hiểu các thay đổi khi một vật được tạo ra hay bị hủy diệt. Khoa Vật Lý của Aristote là khoa học thiên nhiên bao gồm bên trong các bộ môn Thiên Văn, Khí Tượng, Thực Vật Học và Sinh Học. Về Thiên Văn, Aristote cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ, được tạo nên do bốn chất là đất, không khí, lửa và nước. Aristote là nhà sinh học đầu tiên của thế giới. Trái với Plato chú trọng vào Toán Học, Aristote đã thu thập rất nhiều mẫu động vật và thực vật, tìm hiểu các đặc tính, yếu tố liên quan. Về Động vật học (zoology), Aristote cho rằng một chủng loại tiếp tục sinh sản theo cùng một khuôn mẫu và không có cách tiến hóa.

 Aristote tìm kiếm các nguyên tắc căn bản nhất và tổng quát nhất của kiến thức (knowledge) và sự thật (reality). Bởi vì chỉ có Thượng Đế (God) là không thay đổi, nhà Đại hiền triếtgọi ngành nghiên cứu Thượng Đế là Thần Học (theology). Đối với ông, hai bộ môn Đạo Đức Học (ethics) và Chính Trị Học (politics) đều khảo cứu kiến thức thực tế, đây là sự hiểu biết cho phép con người hành động đúng cách và sống hạnh phúc. Qua tác phẩm đề tặng cho con trai tên là Nichomachus và được gọi tên là Nichomachean Ethics (Đạo Đức Học của Nichomachus), Aristote đã phân tích cá tính (character) và trí thông minh (intelligence) khi những tính chất này liên quan đến hạnh phúc, và ông cho rằng một cuộc đời hạnh phúc của con người là cuộc đời làm theo lý trí (reason).

 Về chính trị, Aristote khảo sát sự liên quan giữa lý tưởng, luật pháp, tập quán và tài sản trong các trường hợp thực tế. Ông công nhận chế độ nô lệ (slavery) nhưng nhấn mạnh rằng chủ nhân không nên lạm dụng quyền hành bởi vì chủ nhân và người nô lệ có các quyền lợi như nhau. Aristote đã viết ra cuốn “Hiến pháp của Thành Athens” (The Constitution of Athens) trong khi bộ sưu tập của Thư Viện Lyceum gồm 158 bản Hiến pháp của dân Hy Lạp và các quốc gia khác nhau.

 Vài tác phẩm quan trọng khác của Aristote là các cuốn Rhetoric (Tu từ pháp), Politics (Chính trị) và Poetika/Poetics (Thi pháp). Tác phẩm sau cùng này, Aristote khảo cứu bản chất của bi kịch (tragedy), lấy dẫn chứng từ bi kịch Oedipus Rex (Ơ đíp làm vua) của Sophocles, và tin rằng bi kịch đã ảnh hưởng tới khán giả do gợi lên các cảm xúc như  sợ hãi, thương xót, và cách tẩy sạch những xúc động này được ông gọi là “carthasis”.

 3. Ảnh hưởng của nhà đại hiền triết Aristote

 Sau khi nhà Đại hiền triết Aristote qua đời, Triết Học của ông được giảng dạy tại Trường Lyceum do các môn đệ thuộc nhiều thế hệ sau. Một trong các nhà triết học này là Critolaus đã qua kinh thành Rome vào năm 155 trước CN nhờ đó người La Mã được biết tới nền Triết Học Hy Lạp. Vào năm 50 trước CN, Andronicus người đảo Rhodes, đã ấn hành các tác phẩm của Aristote nhờ đó nhiều học giả đã học tập và phân tích nền Triết Học kể trên, đặc biệt tại xứ Alexandria.

Sau khi Đế quốc La Mã suy tàn, kiến thức về nền Triết Học của Aristote  hầu như bị quên lãng, nhất là trong khoảng thời gian từ năm 500 sau CN tới thế kỷ thứ 9. Sang thế kỷ 9 này, các học giả người Ả Rập đã dịch các tác phẩm của Aristote sang ngôn ngữ của họ và đưa chúng vào thế giới Hồi giáo. Nhà triết học người Tây Ban Nha gốc Ả Rập tên là Averroes thuộc thế kỷ 12 là học giả danh tiếng nhất, đã nghiên cứu và nhận xét về Aristote. Qua thế kỷ 13, các tác phẩm của Aristote lại được quan tâm do các học giả Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo, và Thánh Thomas Aquinas, một trong các nhà triết học gây ảnh hưởng lớn mạnh nhất, đã dùng nền Triết học của Aristote làm căn bản cho các tư tưởng Thiên Chúa giáo thời đó. Dante Alighieri, nhà thơ bậc nhất của thời Trung Cổ, đã gọi Aristote là “Bậc thầy của những người hiểu biết”.

 Lý thuyết về ngành Động Vật học của Aristote đã không thay đổi và được giảng dạy tại tất cả các trường học trong nhiều thế kỷ cho tới khi nhà khoa học người Anh Charles Darwin đề cập tới Thuyết Tiến Hóa vào thế kỷ 19. Học thuyết của Aristote cũng giữ một vai trò quan trọng trong bộ môn Thần Học và trước thế kỷ 20, môn Luận Lý (Logic học) được coi là của Aristote.

 Ảnh hưởng của các ý tưởng, học thuyết và triết học của nhà Đại hiền triết Aristote đã tỏa rộng, thấm nhập vào ngôn ngữ Khoa Học và Triết Học của nhân loại, giúp ích vào công cuộc tìm hiểu kiến thức và lương tri.

 3. Thi pháp (hoặc Nghệ thuật thi ca)

Ποιητικζ  (chữ Hi Lạp)

Poetika  (phiên âm latin)

 Tác giả : Aristote

Gồm 29 chương

 1. Mở đầu

2. Về phân loại tính cách

3. Miêu tả như thế nào ? (mô phỏng, bắt chước)

4. Nguyên nhân nảy sinh nghệ thuật thi ca

5. Đôi nét về hài kịch

6. Về bi kịch

7. Bố trí hành động của bi kịch

8. Sự miêu tả thống nhất hành động của một nhân vật

9. ự việc điển hình hay ngẫu nhiên

10. Quan hệ nhân quả của hành động

11. ự nhận biết của nhân vật (gần với chủ nghĩa hiện thực)

12. Bố cục của một vở kịch

13. Cái đáng sợ và đáng thương, từ hạnh phúc đến bất hạnh

14. Tạo ra sự sợ hãi và xót thương…

15. Sáng tạo từ thần thoại và truyền thuyết

16. Tính cách cao thượng

17. Bàn tiếp về sự nhận biết…

18. Miêu tả chi tiết, tình tiết…

19. Thắt nút và mở nút…

20. Ngôn ngữ diễn đạt và tư tưởng

21. Âm cơ bản, vần, từ ngữ…(tiếng Hi Lạp)

22. Từ ngữ

23. Ẩn dụ

24. Thời gian duy nhất

25. Sử thi và bi kịch… Bàn về sự kì lạ và cái phi lý

26. Nhiệm vụ của nhà thơ…

27. Sử thi dành cho ai ? Bi kịch cho ai ?

29. Xác định hành động duy nhất của bi kịch

 Những khái niệm thần thoại, sử thi (hoặc truyền thuyết bằng thơ), bi kịchthơ của Aristote vẫn còn được coi là kinh điển đến ngày nay.

4.  Danh ngôn Aristote

 Nhóm A

1. Dấu hiệu đặc trưng của nhà thông thái là khả năng dạy học

2. Phải vui chơi mới trở thành nghiêm chỉnh.

3. Toàn bộ có giá trị hơn tổng cộng những phần nhỏ gom lại.

4. Tiền chỉ là một điều tưởng tượng.

5. Nhà hiền triết hạnh phúc ngay cả khi bị tra tấn.

6. Triết gia là người có được tất cả sự hiểu biết trong phạm vi có thể được.

7. Chính nhờ  kinh nghiệm mà khoa học và nghệ thuật tiến bộ nơi con người.

8. Ðịnh nghĩa làm cho ta biết đó là một vật .

9. Nếu như sự không giống như thật xảy ra, đó là vì sự không giống như thật đó giống như sự thật.

10. Biết có nghĩa là  nhớ lại.

11. Nghi ngờ là bắt đầu biết khôn ngoan.

12. Chính trị là  nghệ thuật chỉ huy những người tự do.

13. Bước đầu của  mọi khoa học là câu hỏi: vì sao sự vật lại như vậy

14. Khoa học dựa trên sự ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác

15. Ðối tượng của chiến tranh là hòa bình.

16. Tất cả mọi người đều ao ước có được nhiều hiểu biết, và điều kiện đầu tiên là phải biết  nhìn đời với cặp mắt của đứa trẻ thơ, cái gì cũng mới lạ và làm cho ta ngạc nhiên cả..

17. Hạnh phúc cho ai tự thấy đủ.

18. Kẻ dốt khẳng định, người thông thái nghi ngờ, nhà hiền triết suy nghĩ .

19. Bước đầu tiên quan trọng hơn một nửa của  mục tiêu.

20. Ta chỉ trở thành người  khi ta  tự vượt lên được chính bản thân ta.

21. Sự khác biệt giữa người thông thái với người ngu dốt giống như sự khác biệt giữa người sống với người chết.

22. Sự ngạc nhiên là bằng chứng cho sự can đảm.

23. Rễ của  sự giáo dục thì đắng nhưng trái của nó thì ngọt.

24. Bàn tay là dụng cụ của các dụng cụ.

25. Hy vọng là giấc mơ của người đang tỉnh.

Nhóm B

26. Kẻ nào lúc này không còn là bạn của ta nữa đã chẳng bao giờ là bạn ta cả.

27. Ích kỷ không phải là  tự yêu mình mà là tự đam mê mình một cách  vô trật tự.

28. Khi còn những người là bạn với nhau thì sự công bằng không cần thiết, nhưng khi họ  đối xử công bằng với nhau thì họ cần tình bạn hơn nữa.

29. Một người không thể sống trong xã hội  hay không cần gì hết là bởi họ tự thấy đầy đủ  mà  không cần phải là một thành phần của quốc gia, đó  là  một kẻ thô bạo hay là một  vị thần

30. Một con én đơn độc không làm nên mùa xuân; chỉ một hành động đạo đức không làm  nên đức hạnh.

31. Con người gom nhau lại trong thành phố để sống. Họ ở với nhau để hưởng thú  vui  cuộc đời.

32. Con người là  con vật sống thành xã hội;

33. Người là con vật sống trong xã hội.

34. Hãy nên cư xử với bạn như ta muốn họ đối xử với ta.

35. Có quá nhiều bạn có nghĩa là không có bạn nào hết.

36. Bạn của ta không thể là bạn của mọi người.

37. Sự biết ơn già đi nhanh chóng.

 Nhóm C

38. Thật là hay khi không phải làm nghề gì hết vì con người tự do không phải sống để  phụng sự cho kẻ khác.

39. Ham muốn là thèm sự dễ chịu.

40. Ý định gây ra tội lỗi và tội phạm.

41. Ðạo đức ở ngay chính giữa của hai tính xấu.

42. Tin tức được phô diễn ra trong những hoàn cảnh chối tai nhất là  tin tức được mọi  người nhớ lâu nhất.

43. Nếu như đạo đức không đủ để  bảo đảm hạnh phúc thì  sự dữ tợn đủ để gây bất hạnh.

44. Có  ba loại người: người sống, người chết và người đi trên biển.

45. Hy sinh là điều kiện của đạo đức.

46. Yêu là vui hưởng, vui hưởng không có nghĩa là được yêu.

47. Cảnh thiên nhiên lúc nào cũng đẹp.

48. Lòng can đảm là tính tốt nhất của con người bởi vì nó bảo đảm cho mọi tính tốt khác.

49. Câu nói hay phải rõ ràng mà không nhàm.

50. Kẻ khôn ngoan  theo đuổi sự không  đau đớn chớ không phải đi theo thú vui.

51. Ðiều tốt không đủ để bảo đảm hạnh phúc nhưng điều xấu đủ để  bảo đảm bất hạnh.

52. Sự giận dữ là cần thiết. Ta không thắng được gì cả  khi không có nó lấp đầy tâm hồn  ta và làm nóng lòng ta; nó phải phụng sự cho ta, không phải như một vị thủ lãnh mà là   một binh sĩ.

53. Ta sẽ không  biết sự thật nếu  không biết được nguyên nhân.

54. Hài kịch  làm  cho con người trở thành xấu hơn,  bi kịch thì làm cho họ tốt hơn

Tài liệu tham khảo

  Aristote, Nghệ thuật thơ ca, Lê Đăng Bảng, Thành Thế Thái Bình, Đỗ Xuân Hà, Thành Thế Yên Báy biên dịch, Nxb Văn hóa nghệ thuật, HN, 1964

       * Một số trang WEB trên mạng internet…

P.H.N

Poeted by Hoài Ngọc

Bình luận về bài viết này