nguvandhag

22 THÁNG BẢY, 2015

CHẲNG LẼ VẪN CỨ DẠY NGƯỜI NHƯ THẾ NÀY?

Dương Đình Giao

Cô bé học lớp 3, con một gia đình khá giả. Ở lớp, cô giáo ra bài về nhà làm. Đầu bài là: Em hãy trực tiếp làm một công việc gì đó giúp mẹ lau dọn nhà cửa. Sau đó, em hãy kể lại việc mình đã làm và nói lên suy nghĩ của mình.

Là một học trò ngoan (hầu hết, các cháu học tiểu học đều rất ngoan), cô bé đã nói với người giúp việc cho cô được lau nhà. Tất nhiên, công việc không đơn giản với một bé mới 8 tuổi. Nhưng cô cũng đã hoàn thành (mặc dù chưa hoàn toàn vừa ý). Trong bài làm, cô đã kể lại chân thực công việc. Sau đó, phần nói lên suy nghĩ, cô bé viết đại ý: sau khi lau nhà xong, em thấy rất mệt, hai tay mỏi rời, quần áo lấm bê bết. Em thấy mình phải cố gắng học tập giỏi để sau này không phải đi làm người giúp việc gia đình suốt ngày phải làm những công việc nặng nhọc như thế.

Sau khi nộp bài mấy ngày, một buổi chiều, trong bữa cơm, cô bé không được vui vẻ như mọi ngày. Cô kể lại chuyện và giải thích với bố mẹ:

– Cô giáo bảo con về nhà viết lại, không được viết như thế vì thế là thể hiện thái độ lười biếng, ngại lao động chân tay. Bây giờ con phải viết thế nào ạ?

Sau khi nói mấy lời an ủi con, người mẹ gợi ý:

– Con có thể viết: lau nhà xong, em mới thấy thương mẹ em hơn vì hàng ngày, mẹ em vẫn phải làm những công việc như thế.

– Nhưng con có thấy mẹ lau nhà bao giờ đâu ạ? Toàn cô giúp việc làm đấy chứ!

Người bố từ đầu chưa nói câu gì, nay mới tham gia để “gỡ rối” cho người mẹ:

– Con không biết là viết văn, người ta phải hư cấu sao? Không nhất thiết phải có thực thì mới được viết. Truyện của các nhà văn mà con đọc đều như thế cả mà!

Một người bạn kể cho tôi nghe câu chuyện này và hỏi:

– Bác thấy thế nào?

Suy nghĩ một lát, tôi trả lời:

– Đây chỉ là một câu chuyện nhỏ, không có gì gay cấn, nhưng nó phản ánh đúng đắn một thực trạng của giáo dục Việt Nam hiện nay.

Dạy trẻ em nói dối, thậm chí buộc trẻ em nói dối, có thể nói là căn bệnh nặng nhất của nền giáo dục từ hơn nửa thế kỷ nay. Từ khi tới nhà trẻ, mẫu giáo, trẻ em nước ta đã được nghe và dạy nói dối. Cách nay gần bốn mươi năm, khi ăn cơm, thấy món đậu phụ kho với cà chua, con gái tôi đã chỉ vào đĩa nói: “Con không ăn thịt bò đâu”. Mẹ cháu ngạc nhiên hỏi:

– Đây là đậu phụ, sao con lại gọi là thịt bò?

Cháu khẳng định:

– Cô giáo bảo đây là “thịt bò màu trắng”.

Hóa ra hàng ngày, đi nhà trẻ liên cơ (nhà trẻ cho con cán bộ nhiều cơ quan), cô giáo đã dạy cho các cháu nhiều điều không phải là sự thật, chẳng biết với động cơ gì?

Poseted by Hoài Ngọc

 31.05.2015

 VNTB – Tản Đà đến Long Xuyên

Truyện ngắn Trần Thế Kỷ (đăng VNTB)

Ai trong chúng ta lại chẳng từng được thưởng thức những áng thơ tuyệt tác của Tản Đà. Ông được xem là nhà thơ Việt Nam lớn nhất thế kỷ 20. 

Năm Đinh Mão (1927), tờ An Nam Tạp Chí của thi sĩ Tản Đà bị thất bại, phải tạm đình bản.Đây cũng là dịp tốt để nhà thơ thực hiện chuyến thăm miền Nam theo lời mời trước đó của nhiều bạn bè thân hữu.

Tản Đà đi đến đâu được trọng vọng đến đó: Phong lưu chẳng thiếu đâu đâu, nước non đưa đón khắp hầu gần xa. Trong chuyến Nam du lần này, đáng nhớ nhất có lẽ chính là chuyến thăm Long Xuyên mà sau này nhà thơ có ghi lại trong bài: “Thú ăn chơi”: Long Xuyên chén mắm, Nghệ An chén cà.

* * *

Chiếc xe thổ mộ bon bon lăn bánh trên con đường đất hai bên xanh mát những hàng sao. Đường bằng phẳng lại thêm ngựa khỏe và cổ xe còn mới nên xe chạy khá êm. Gió mát buổi sớm khiến khách trên xe thấy lòng thơ thới. Một đàn cò trắng bay dịu dàng trên nền trời không một gợn mây. Hồn quê nhịp theo tiếng vó ngựa lóc cóc.

 
Long Xuyên xưa !

Không kể ông già đánh xe, thảy có bốn người, ba phụ nữ và một người đàn ông. Tuổi gần 40 mươi, dáng hơi đẫy, ông ta có gương mặt hồng hào, đôi mắt sáng và mái tóc hơi điểm bạc. Đó chính là Tản Đà, nhà thơ nổi tiếng từ Bắc chí Nam.

Ngồi đối diện với thi sĩ là một thiếu nữ tuổi gần đôi mươi, nước da trắng trẻo, vóc người thanh tú, mặc bộ bà ba bằng lụa mềm mại.

– Sắp tới làng Kiến Hòa chưa cô? Tản Đà hỏi người bạn đồng hành.

– Dạ, sắp tới rồi thầy Hai. Thiếu nữ lễ phép đáp. Thầy Hai tới đó chắc có chuyện chi?

– Đúng vậy. Tản Đà mỉm cười. Tôi tới đấy thăm người bạn là ông Cai Tổng. Cô em chắc người vùng này?

– Thưa phải. khi nào xe tới nhà ông Cai Tổng, em sẽ nói thấy Hai biết.

Thiếu nữ như muốn nói gì thêm nhưng lại thôi, chỉ tủm tỉm cười để lộ hai má lúm đồng tiền trông duyên dáng đáo để, khiến trái tim đa tình của thi sĩ đập liên hồi.

* * *

– Cho xuống, bác Ba ơi!

Thiếu nữ nói lớn. Cỗ xe từ từ dừng lại trước cổng một ngôi nhà to ngói đỏ tường vàng tọa lạc trong một khu vườn rộng trồng nhiều cây ăn trái.

– Tới nhà ông Cai Tổng rồi thầy Hai.

Cô gái nói với Tản Đà. Cả hai cùng xuống xe. Cô ta tự nhiên mở cổng với vẻ rất quen thuộc.

– Tía ơi, có khách.

Cô nàng nói với người đàn ông mặc bộ py -gia – ma đang lúi húi bên mấy chậu hoa trước nhà. Đó là một người tuổi trạc năm mươi, có vóc dáng tao nhã và gương mặt hiền hậu dễ gần. Nghe tiếng thiếu nữ, ông ta ngẩng nhìn ra phía cổng. Tản Đà nhận ra ngay chính là ông Cai Tổng năm ngoái trong dịp ra Hà Nội đã ghé thăm nhà thơ và hết lời mời mọc vào chơi Long Xuyên khi có dịp.

– Hóa ra cô em là con gái ông Cai Tổng. Tản Đà ngạc nhiên. Sao khi nãy trên xe không cho tôi biết.

Cô gái không đáp, chỉ mỉm cười, ông Cai Tổng thấy khách quý thì rất đỗi sung sướng, vội bước tới tay bắt mặt mừng.

– Thật vinh hạnh cho tôi được thi sĩ Tản Đà viếng thăm.

– Ủa, té ra Thầy Hai là Tản Đà thi sĩ. Đến lượt thiếu nữ ngạc nhiên, tròn xoe đôi mắt. Sao khi nãy trên xe không cho em hay.

– Tiên sinh đi đường xa hẳn là mệt nhọc. Mời tiên sinh vào nhà để vợ chồng tôi được hầu chuyện.

Ông Cai Tổng ân cần nắm tay nhà thơ đoạn quay sang con gái:

– Con đi pha ấm trà ngon và gọi má ra yết kiến tiên sinh.

Phòng khách của ngôi nhà gợi cho Tản Đà một cảm giác thân quen. Thật ra nó không khác mấy so với những nhà khá giả khác: phía cuối là tủ thờ gia tiên, giữa nhà là bộ bàn ghế bằng gụ hoặc cẩm lai, bên phải là bộ ván ngựa bằng gỗ mun…nhưng điểm thú vị ở đây khiến nhà thơ cảm thấy gần gủi chính là kệ sách lớn nằm sát tường bên trái với hàng trăm cuốn sách, thảy được đóng bìa cứng cẩn thận. Sách chữ Tây có, chữ Hán có nhưng đa phần là chữ quốc ngữ mà hầu hết là về văn chương. Đặc biệt trong đó có nhiều sách do chính Tản Đà sáng tác hoặc dịch thuật như Khối tình, Thề non nước, Đại Học, Kinh thi… chứng tỏ chủ nhân là người có học, biết trọng thơ văn.

Chủ và khách ngồi được một chốc thì cô gon gái và bà mẹ cùng bước ra. Cô bưng bộ trà rất đẹp, có khi làm ở bên Tàu hay Nhật Bổn. Bà mẹ tuổi ngoài bốn mươi, dáng vẻ hiền lành với gương mặt thật phúc hậu. Bà cúi đầu chào quý khách, rót trà mời khách và giới thiệu con:

– Thưa tiên sinh, vợ chồng tôi có cả thảy bốn đứa, ba gái, một trai. Hai đứa lớn đi lấy chồng xa. Con Tư này học song Pri-me thì nghỉ, còn thằng út đang học trên tỉnh, sắp lấyThành chung.

– Ông bà thật may mắn có cô Tư xinh đẹp quá – Tản Đà cười, liếc nhìn thiếu nữ. Chắc khối cậu chết mê.

– Ôi chao, nó kén lắm, tiên sinh ơi. Bà mẹ lắc đầu. Con trai ông quan tỉnh hỏi, nó chưa chịu lấy. Chỉ cần nó gật đầu, người ta tới rước nó ngay. Vậy mà…

– Thôi, bà và con Tư chuẩn bị cơm nước mời tiên sinh. Ông Cai Tổng khoát tay. Để tôi hầu chuyện tiên sinh.

* * *

Bên ấm trà ngon, chủ khách say sưa đàm đạo với nhau về đủ mọi chuyện trên đời: Chuyện quốc sự, chuyện mưa nắng, chuyện văn thơ, đặc biệt là tình hình sáng tác của chính Tản Đà thi sĩ.

Chẳng mấy chốc đã sắp đến giờ ngọ. Bữa tiệc đãi khách bắt đầu được cô Tư và mẹ dọn ra.

– Ôi chao, tôi sắp được một bữa đại yến đây!

Tản Đà xuýt xoa nhìn những món ngon được đặt lên tấm ván ngựa. Gồm hai mâm. Một con gà quay vàng ươm, một chú vịt luộc tròn trịa. Cả hai nằm chung một mâm với chai rượu ngâm thuốc Bắc. Mâm kia để đầy khế chua, rau sống, gừng lát, chuối chát, ớt nguyên trái, thịt ba rọi luộc chín xắt ra từng miếng, bánh tráng, một chén nước mắm… Nhưng trung tâm của mâm này chính là một dĩa to đựng món mắm nổi tiếng của vùng Long Xuyên – Châu Đốc mà Tản Đà sẽ không bao giờ quên.

Thức ăn đã dọn xong, ông bà Cai Tổng mời nhà thờ cùng ngồi lên ván, bắt đầu bữa tiệc. Cô Tư không ăn chung, ngồi ghế chờ sai bảo.

– Đây là món gì? Tản Đà chỉ tay vào dĩa mắm, mùi thơm của mắm khiến nhà thơ ứa nước miếng.

– Thưa tiên sinh, đây là món mắm do chính con Tư nhà tôi làm – bà chủ mau mắn đáp.

Bà chủ vừa nói vừa lấy bánh tráng cuốn mắm, khế chua,…Xong cho vào một dĩa không.

– Bánh tráng cuốn này chấm với nước mắm ăn rất ngon. Mời tiên sinh dùng thử – Bà Cai Tổng hai tay cầm dĩa bánh tráng cuốn đưa cho Tản Đà. -Tiên sinh dậm thêm trái ớt hoặc tép tỏi lại càng đậm đà hơn.

Thi sĩ cứ y như lời, dùng ngay, không khách sáo. Ăn tới đâu, đã mồm tới đó. Càng ăn, càng đã. Chẳng mấy chốc mâm có mắm gần cạn. Nhà thơ tuyệt nhiên không động đũa tới món gà, vịt. Những thứ đó không còn lạ gì. Ông bà Cai Tổng thấy nhà thơ ăn uống ngon miệng lấy làm sướng dạ lắm.

– Xin hỏi cô Tư làm món mắm này như thế nào?

Cuối tiệc, Tản Đà quay sang hỏi cô con gái cưng của gia chủ.

– Dạ thưa, cũng đơn giản thôi. Cô Tư lễ phép đáp. Chỉ việc lấy cá lóc hoặc cá bông, lựa con to đánh vẩy, cạo vây, rửa sạch ngâm muối trong khạp chừng nữa tháng…

– Rồi sao nữa? Tản Đà lại hỏi. Giọng nói dễ thương cũng như sự duyên dáng của cô Tư khiến nhà thơ chăm chú lắng nghe.

– Dạ thưa, để mười lăm ngày cho thấm, vớt cá ra chặt bỏ đầu, lột da, lóc xương, lấy thịt thái nhỏ rồi ướp đường, bột ngọt…

– Rồi sao nữa? Tản Đà lại hỏi, mắt cứ nhìn cô Tư chằm chằm, không biết vì muốn tìm hiểu nghệ thuật làm mắm hay vì cô Tư dễ thương quá.

– Dạ thưa, sau đó lấy đu đu sắt nhuyễn từng sợi, vắt mủ phơi một ngày, cho đu đủ dẻo, xong cho mắm vào khạp, lấy gạo lức rang xay nhuyễn làm thính rãi đều, đậy khạp thật khít. Mắm cho vô khạp độ tuần lễ là ăn được.

– À, cả một nghệ thuật. Thế mới biết nghề ăn cũng lắm công phu. Cô Tư giỏi quá, đủ cả công dung ngôn hạnh.

Tản Đà tấm tắc khen làm cô Tư hai má ửng hồng, cười bẽn lẽn. Rồi ra chiều hả hê, nhà thơ lim dim hai mắt, ngâm nga mấy vần thơ:

“Còn trời, còn nước, còn non

Tiền trình vạn lý, anh còn chơi xa”

* * *

Tản Đà ở chơi Long Xuyên mấy ngày thì về Hà Nội, kết thúc chuyến Nam du.

Về đến nhà, lòng nhà thơ bừng lên nỗi nhớ miền Nam. Nhớ da diết. Từng khuôn mặt thân quen của bạn bè trong đấy lần lượt trở về trong tâm trí. Nhưng người nhà thơ nhớ nhất chính là cô con gái cưng của ông bà Cai Tổng ở làng Kiến Hòa. Nhớ hai má lúm đồng tiền mỗi khi cô cười, nhớ dáng đi mềm mại, nhớ hàm răng trắng đều, nhớ giọng nói ngọt ngào …

Nhớ nhiều lăm. Nhiều lúc nhà thơ muốn vào ngay Long Xuyên để được thấy lại khuôn mặt người con gái đáng yêu. Không ai cấm nhớ. Nhưng nhớ thì làm được gì. Giá chưa từng gặp còn hơn!

Biết vậy, nhưng nhà thơ vẫn cứ nhớ:

Bốn phương mây nước, người đôi ngã

Hai chữ tương tư, một gánh sầu.

Cứ thế, ôm mối tương tư, nhà thơ trở nên lẫn thẩn suốt cả tháng liền, người cứ rạc cả đi. Ai có hỏi dạo này sao có vẻ đăm chiêu, ít nói, Tản Đà tiên sinh chỉ cười gượng gạo:

– Nhớ mắm Long Xuyên.

Trần Đình Sử:

 Về cuốn sách 
“Trên đường biên của lý luận văn học” của tôi
 
 

Đường biên là nơi tiếp giáp, tiếp xúc của các nền lí luận, các trường phái lí luận văn học. Môt thời gian dài chúng ta đóng đường biên, lí luận múa đao trong nhà, nó không phát triển, thoái hóa, nói đi nói lại mấy điểm cũ nhảm. Từ ngày đổi mới, nhất là từ ngày hội nhập chúng ta mở biên, thúc đẩy giao lưu, lí luận khởi sắc. Là nhà lí luận phải đứng trên đường biên, đón gió bốn phương, tự thay đổi mình. Cuốn sách này là một trong các thành quả của cuộc mở biên trong thời hội nhập.

Lí luận của ta hiện có ba loại. Một là lí luận dưới dạng nguyên ngữ, bằng tiếng nước ngoài. Loại thứ hai là lí luận dịch thuật, tổng thuật, giới thiệu. Và ba là lí luận do tổng hợp, trình bày quan niệm riêng, vận dụng vào nghiên cứu của mình. Cuốn sách này thuộc dạng thứ ba.
Đọc tiếp »

Nguyễn Xuân Diện 
Tường thuật Tọa đàm “Trần Đình Sử trên đường biên của lí luận văn học” 

Nhân dịp ra mắt cuốn sách “Trên đường biên của Lý luận văn học” của tác giả Trần Đình Sử, chiều 23 tháng 1 năm 2015, Khoa Viết văn báo chí, ĐH Văn hóa HN đã tổ chức tọa đàm “Trần Đình Sử trên đường biên lý luận văn học”. Đông đảo các nhà lý luận phê bình văn học, các giảng viên, giáo sư đại học và các học viên cao học, nghiên cứu sinh đã đến dự.  
 *
Trong một hội trường khiêm tốn, khoảng 60 người đã có mặt ngay từ khi buổi tọa đàm chưa bắt đầu, với sự có mặt của các học giả, nhà nghiên cứu: Đỗ Lai Thúy, La Khắc Hòa., Trương Đăng Dung, Nguyễn Hùng Vỹ, Đoàn Ánh Dương, Mai Anh Tuấn, Lưu Khánh Thơ, Đoàn Tử Huyến, Phạm Duy Nghĩa. Nguyễn Xuân Diện, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Xuân Đức, Nguyễn Đức Mậu, Lại Nguyên Ân, Trần Ngọc Hiếu, Phùng Ngọc Kiếm… 
 *
Cuộc tọa đàm do Nhà văn, PGS.TS Ngô Văn Giá, chủ nhiệm khoa Viết văn Báo chí (ngày xưa khoa này chính là một trường riêng, gọi là Trường Viết văn Nguyễn Du) chủ trì, và Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên dẫn dắt. 
 *

Mở đầu, nhà văn Văn Giá giới thiệu từng vị khách có mặt, với mục đích để cho sinh viên và học viên, nghiên cứu sinh được thấy những gương mặt khả kính của làng lý luận mà họ mới chỉ được đọc trên tác phẩm. Sau đó nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên giới thiệu về diễn giả cũng là tác giả của “Trên đường biên của Lý luận văn học” – Nhà lý luận Trần Đình Sử với những lời rất trân trọng, kính yêu. 

 *
Đại để, ông Nguyên nói: Giáo sư Trần Đình Sử là một nhà lý luận phê bình được đào tạo chính quy nhất từ hai nước Liên Xô và Trung Quốc. Ông là nhà khoa học hàn lâm, đã từng giới thiệu lý thuyết về Thi pháp học về Việt Nam và áp dụng thành công (Thi pháp Truyện Kiều, thi pháp thơ Tố Hữu). Trần Đình Sử suốt đời theo dõi đời sống lý luận và đời sống văn học Việt Nam một cách sát sao, vì vậy tiếng nói của ông là tiếng nói của một người có thẩm quyền bậc nhất. Và hôm nay, nhân dịp xuất bản cuốn sách mới nhất khi ông 75 tuổi, ông sẽ dành cho chúng ta một vinh dự là được nghe ông nói về cuốn sách của mình.
Tiếp theo, Trần Đình Sử, với giọng nói âm sắc Bình Trị Thiên nhưng khá cuốn hút đã trình bày về 3 phần của cuốn sách, và đặc biệt nhấn mạnh đến phần 1 “Mấy vấn đề lí luận Marxist và lí thuyết hiện đại”. Ngắn gọn, súc tích, đầy đủ, chừng mực và giàu sức thuyết phục, ông nói về:

Văn học và ý thức hệ xã hội, trong đó ông phân biệt ý thức hệ chính đảng  với ý thức hệ giai cấp; ông nói rất, mạch lạc về ý thức hệ chỉnh thể. Và ông dứt khoát văn học chỉ có trong đó  ý thức hệ chỉnh thể  mà thôi.

Văn học phản ánh hiện thực là gì? Đó chính là đặc sản của Lenin. Thực ra, phản ánh không phải là coppy, sao chép, chụp ảnh, mà chính là kiến tạo tạo và luôn phải có kiến tạo tạo.

Về phương pháp sáng tác, ông khẳng định không có phương pháp sáng tác chung chung như bấy lâu nay mọi người vẫn hiểu, mà chỉ có phương pháp sáng tác riêng của từng nghệ sỹ. Ông cho biết cả Liên Xô (cũ) và Trung Quốc đều đã không còn dạy dỗ rao giảng gì về vấn đề   phương pháp sáng tác như trước kia nữa.

Về lý thuyết hình tượng. Sai lầm của Lenin là không đề cập đến  tính ký hiệu của hình tượng, đồng thời cũng chưa nói được bản chất giao tiếp  của văn học nghệ thuật.

Văn học không phản ánh hiện thực, mà phản ánh cái khả nhiên, cái khả nhiên phong phú hợn hiện thực nhiều.

Về quan hệ văn học và hiện thực, ông cho rằng nhà văn đi vào nhà máy, công xưởng, ruộng đồng chỉ để sang tạo cái biểu đạt. Nhà văn phản ánh ý nghĩa nhân sinh của cuộc sống.

Trần Đình Sử kết thúc 30 phút trình bày của mình rằng: Lý luận văn học Mác xít có rất nhiều nhầm lẫn. Và chúng ta phải nhận thức lại.

Tiếp theo, theo lời mời của Phạm Xuân Nguyên là lần lượt ý kiến của Phạm Xuân Nguyên, La Khắc Hòa, Trương Đăng Dung, Đỗ Lai Thúy, Trần Ngọc Hiếu, Lại Nguyên Ân, Văn Giá, Nguyễn Xuân Đức, Mai Anh Tuấn, Phùng Ngọc Kiếm, Đoàn Ánh Dương, Nguyễn Đăng Điệp. Riêng ba tiến sĩ Nguyễn Đức Mậu, Lưu Khánh Thơ, Nguyễn Xuân Diện (ngoại đạo) không được mời phát biểu.

 
 Nhà phê bình Lại Nguyên Ân (bên phải) phát biểu
 
 
 
 PGS.TS La Khắc Hòa phát biểu
 PGS. TS Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy phát biểu

GS. La Khắc Hòa khẳng định tầm quan trọng của vấn đề mà cuốn sách nêu ra, đó là phải truy vấn lại tất cả các lý thuyết mà chúng ta được trang bị lâu nay, hoài nghi, bàn thảo, truy vấn tất cả và cuối cùng là để kiến tạo những lý thuyết mới.

Nhà phê bình Lại Nguyên Ân đánh giá cao sự xuất hiện của cuốn sách trong bối cảnh hiện nay khi mà bầu trời lý thuyết lý luận đầy u ám.

Các nhà phê bình văn học trẻ như Trần Ngọc Hiếu, Mai Anh Tuấn, Đoàn Ánh Dương tìm thấy trong cuốn sách sự dẫn lối và nghe thấy trong đó hồi kèn hiệu triệu của một bậc lão làng trong làng phê bình, lý luận văn học. Mai Anh Tuấn, Nguyễn Đăng Điệp phát hiện cuốn sách xuyên suốt là một giọng điệu hóm hỉnh của một bậc trưởng thượng mà “ngoan đồng”.

Là người phát biểu cuối cùng, bằng một giọng nói xúc động mà vui vẻ Giáo sư Trần Đình Sử đã nói lời tâm sự của một người cả đời đi tìm kiếm và áp dụng lý luận cho ngành phê bình và nghiên cứu văn học.

Ông nói: “Nền lý luận mà chúng ta đang có cũ quá rồi! Quá date rồi! Chúng ta, trong đó có tôi đã sai lầm, đã ấu trĩ, đã ngộ nhận nhiều rồi.

Các anh chị khi lên lớp hãy nói cho sinh viên rằng: Phản ánh hiện thực là Kiến tạo tạo hiện thực. Khi dạy về hình tượng thì hãy nói Hình tượng là ký hiệu. Tất cả chúng ta hãy góp sức làm thay đổi hệ thống lý luận, làm thay đổi bức tranh lý luận.


Đổi mới lý luận là phải có nhiều người cùng làm, mà mỗi người là một khác nhau chứ không phải là bè cánh. Tôi mừng thấy thế hệ trẻ đã có cái mới và sẽ đem cái mới về cho nền lý luận văn học của chúng ta”.

Rồi ông nói vui: “Tôi là một tội đồ đã reo rắc bao nhiêu sai lầm cho bao nhiêu thế hệ sinh viên học sinh. Tôi muốn làm một việc gì đó, để sửa sai cho mình, trước hết được nói ở trong cuốn sách này”.

Cuộc tọa đàm diễn ra trong 3 tiếng đồng hồ, với khoảng 60 người tham dự. Rất hiếm hoi có một cuộc sinh hoạt học thuật về lý luận mà lại hấp dẫn, lôi cuốn được từ đầu đến cuối trong chừng ấy tiếng đồng hồ.

 
PGS. TS. Nhà văn Văn Giá, trưởng khoa Viết Văn Báo Chí tặng hoa GS. TS Trần Đình Sử

Trần Đình Sử là Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân Dân. Ông là một nhà khoa học uyên bác và có thẩm quyền trong làng lý luận văn học lâu nay. Với 75 tuổi đời, ông vẫn hàng ngày cặm cụi bên bàn làm việc nhiều giờ, đọc trực tiếp những bài viết, công trình mới nhất từ nguyên bản tiếng Nga và tiếng Trung trên bản điện tử, vẫn viết với cường độ mà nhiều anh em trẻ cũng khó theo kịp. Vẫn chấm các luận văn luận án, viết bài cho các hội thảo và theo dõi sát sao đời sống văn học và lý luận nước nhà. Trần Đình Sử đã là một cây đa, cây đề, một bậc danh vọng trong làng phê bình và nghiên cứu văn học. 

Sương tuyết đã nhuộm trắng mái đầu, Trần Đình Sử vẫn luôn đổi mới, quyết lòng tính sổ và bỏ lại phía sau những gì đã lỗi thời, lạc hậu, trì trệ và áp đặt thô thiển – mặc dù có khi chính cái đó đã mang lại danh vọng cho ông, để lên đường, chặng mới của hành trình đổi mới lý luận văn học…

N.X.D

Nhạc Trần Quang Lộc- thơ Á Khuê

 (Chép tặng Trưởng môn phái Ngữ văn Trần Tùng Chinh và thầy trò Ngữ văn)

 Thưởng thức ca khúc video clip:

 Ca sĩ Tuấn Ngọc hát phong cách thính phòng cổ điển:

https://www.youtube.com/watch?v=YnvMQqZnPGg

Ca sĩ Elvis Phương hát phong cách dân gian:

https://www.youtube.com/watch?v=OBRJi00WEXU 

Lời 1:
Về đây nghe em, về đây nghe em 
Về đây mặc áo the, đi guốc mộc 
Kể chuyện tình bằng lời ca dao 
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai 
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới 
Và về đây nghe lại tiếng nói thơ ấu khúc hát ban đầu 

Về đây nghe em, về đây nghe em 
Về đây thả ước mơ đi hát dạo 
Để đời đời làm giọt sương mai 
Để chào đời bằng lòng mới lớn 
Để hận thù người người lắng xuống 
Và tìm nhau như tìm xót xa 
Trong lúc lệ đã đầy vơi 

Này hồn ơi lên cao lên cao 
Đem ánh sáng hân hoan trên trời 
Rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương 
Này thịt xương ta chưa mang theo 
Khi ngã xuống miên man tủi hờn 
Và về đây nghe nhau thở dài trong đêm 

Về đây nghe em, về đây nghe em 
Về đây đứng khóc trên sông nước này 
Chở lòng người trở về quê hương 
Chở hồn người vào dòng suối mát 
Chở thật thà vào lòng dối trá 
Và nhặt hoa xin tạ chút ơn 
Hoang phế khi đã gặp nhau 

Lời 2: 

Về đây nghe em, về đây nghe em 
Về đây mặc áo the, đi guốc mộc 
Kể chuyện tình bằng lời ca dao 
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai 
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới 
Và về đây nghe lại tiếng nói thơ ấu khúc hát ban đầu 

Về đây nghe em, về đây nghe em 
Về đây thả ước mơ đi hát dạo 
Để đời đời làm giọt sương mai 
Để chào đời bằng lòng mới lớn 
Để hận thù người người lắng xuống 
Và tìm nhau như tìm xót xa 
Trong lúc lệ đã đầy vơi 

Này người ơi vươn cao vươn cao 
Đem ánh sáng hân hoan trên trời 
Rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương 
Nụ cười tươi trên môi em thơ 
Là tiếng hát hân hoan cho đời 
Và về đây cho nhau nụ cười tương lai 

Về đây nghe em, về đây nghe em 
Về đây đứng hát trên sông nước này 
Chở lòng người trở về quê hương 
Chở hồn người vào dòng suối mát 
Chở thật thà vào lòng dối trá 
Và nhạc hoa xin tạ chút ơn 
Hạnh phúc khi đã gặp nhau

 

Bản nhạc kèm hợp âm cho Guitar và Organ:

For guitar 1For guitar 2

 Posted by Phùng Hoài Ngọc

3/11/2014

 

 

 

Tháng Năm 26, 2014

 GSTS.Trần Đình Sử

      Bài báo của Lenin Tổ chức đảng và xuất bản phẩm của đảng (партийная организация и партийная литература) viết vào tháng 11 năm 1905, do điều kiện lịch  sử, từ Liên xô sang Trung Quốc, rồi đến Việt Nam đều được hiểu và dịch thành Tổ chức đảng và văn học có tính đảng. Chữ literatura (литература) thông dụng trong nhiều tiếng phương Tây, có nghĩa là:

1. chỉ chung mọi tác phẩm viết bằng văn tự, văn viết. Nó cũng chỉ chung các xuất bản phẩm như sách, báo, tạp chí, truyền đơn, tờ rơi, ấn phẩm nói chung;

Đọc tiếp »

Lê Thành Khôi

 Đọc quyển “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm

 Từ khi ra mắt đến nay, tác phẩm Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (TPHCM, 1996) của Trần Ngọc Thêm đã được tái bải nhiều lần, được coi là một trong những công trình nghiên cứu văn hoá Việt Nam quan trọng và được sử dụng như một trong những sách giáo khoa trong các chương trình giảng dạy thuộc lĩnh vực liên quan tại các trường đại học. Được sự đồng ý của Diễn Đàn (Paris), chúng tôi trân trọng giới thiệu bài phê bình của nhà sử học lão thành Lê Thành Khôi, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hoá Việt Nam, trong đó có tác phẩm Le Vietnam, Histoire et Civilisation (Paris, 1955), không những đã trở thành kinh điển cho giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam mà còn là cuốn sách gối đầu giường của biết bao người nuớc ngoài quan tâm đến Việt Nam, đặc biệt của thế hệ 68 tại phương Tây. 

Cuốn Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam [*] của ông Trần Ngọc Thêm (TNT) ra mắt độc giả năm 1996 đã thu hút được sự chú trọng của dư luận và được bằng khen của ông Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo. Xuất bản lần 3 năm 2001, sách dày gần 700 trang. Lướt qua 6 chương, danh sách 436 tài liệu tham khảo và bảng chỉ dẫn, cảm tưởng đầu tiên là đây là một công trình nghiên cứu có hệ thống, công phu. Ðọc kĩ hơn, tôi thấy thỉnh thoảng có vài sai lầm và một số lập luận phải bàn sâu. Vậy, như tác giả đã gợi ý trong lời nói đầu, tôi xin đóng góp vài lời sau đây. Bài này chỉ liên quan đến Chương I của sách: Cơ sở lí luận cho cách nhìn hệ thống – loại hình về văn hoá Việt Nam (Cái nhìn hệ thống – loại hình là phụ đề của quyển sách). Những chương sau sẽ được bàn tiếp. 

Đọc tiếp »


Giới thiệu

GS Trần Đình Sử tác gỉa quen thuộc với hầu hết GV văn nước ta đã biên dịch công trình nghiên cứu của GS Todorov  (Liên Xô cũ). Sau đó ông viết bài gửi GV ngữ văn trung học nước ta bàn về vấn đề trên. Bài viết rất thú vị và hữu ích, tuy nhiên cũng có chổ sơ suất nhỏ: Ông viêt :”Chí Phèo đã giết Bá Kiến và tự sát. Hành động này được miêu tả rất thú vi. Thoạt đầu Chí định trả thù Thị Nở...”- Thực tế là  Chí Phèo định đi chém bà cô Thị Nở người đã ngăn cản cô cháu gái dám yêu Chí. Chí đâu có thể nỡ lòng đi chém người tình dù chỉ một đêm đã ảnh hưởng đủ mạnh khiến Chí sắp sửa hoàn lương…

Hoài Ngọc

Cùng các bạn giáo viên trung học

 Trần Đình Sử

 

     Nền tảng lí thuyết để dạy học đọc hiểu trong nhà trường hiện nay là lí thuyết hình tượng nghệ thuật bắt nguồn từ lí luận văn học xô viết. Ngày nay chúng ta đã thấy lí thuyết ấy có hạn chế và ngoài việc khẳng định văn học bắt nguồn từ đời sống xã hội ra, lí thuyết ấy ít có khả năng lí giải các vấn đề cốt tử của văn học và nghệ thuật. Về vấn đề này xin xem mấy bài viết của tôi về phản ánh luận và về mối quan hệ văn học và hiện thực trong tầm nhìn hôm nay trên trang blog này. Nhiệm vụ bây giờ là muốn đổi mới phương pháp dạy học văn, chúng ta cần đưa kí hiệu học vào môn đọc văn ở nhà trường.

     Đọc tiếp »

Ảnh minh họa trên The Newyorker. Nguồn: newyorker.com

Ảnh minh họa trên The Newyorker. Nguồn: newyorker.com

Nguyên tác: Wenlock Edge

Tác giả: Alice Munro

Người dịch: Phùng Hoài Ngọc

 Mẹ tôi có một người anh em họ còn độc thân, trẻ hơn bà khá nhiều, người đã từng ghé thăm chúng tôi ở trang trại vào mỗi mùa hè. Anh mang theo mẹ, dì Nell Botts. Tên của anh là Ernie Botts. Anh có dáng người cao ráo, vẻ đàn ông hào nhoáng với một biểu hiện tốt bụng, một khuôn mặt vuông rộng và mái tóc vàng xoăn mọc thẳng lên từ trán. Bàn tay móng tay anh sạch như xà bông; hông của anh khá đầy đặn. Tôi đặt tên cho anh, khi anh không lịch lãm, là “mông bự nhiệt tình”. Miệng lưỡi của tôi phải nói là khá độc địa.

Đọc tiếp »

Ảnh minh họa cho truyện trên The Newyorker. Nguồn: newyorker.com

Ảnh minh họa cho truyện trên The Newyorker. Nguồn: newyorker.com

Nhà văn Canada Alice Munro

Lời dẫn (ND)

 Chuyện diễn ra ở một bệnh viện lao mang tên “San” thuộc vùng vịnh biển Amundsen phía tây bắc Canada với khí hậu rất lạnh. Bệnh lao trước Thế chiến II ít có hi vọng chữa khỏi, bởi thuốc kháng sinh đặc trị Streptomycin chưa kịp được sáng chế…Bệnh nhân là trẻ em, trong khi chữa bệnh lại được học văn hóa, nhà nước cử giáo viên đến ở tại bệnh viện dạy các em học. Bác sĩ cũng kiêm luôn thầy giáo dạy dỗ bệnh nhân học … Nhân vật dẫn chuyện là cô giáo trẻ Hyde vừa tốt nghiệp đại học…

Đọc tiếp »